CÁC XÉT NGHIỆM CƠ BẢN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B

HBsAg (Hepatitis B surface antigen) và anti HBs 

HBsAg (Hepatitis B surface antigen): Là kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B, có khả năng lây truyền qua máu . Bệnh nhân dương tính HBsAg sẽ được coi là bị nhiễm và có khả năng lây nhiễm. HBsAg thường xuất hiện trong huyết thanh sau 1 – 10 tuần khi tiếp xúc với virus viêm gan B, và trước khi người bệnh xuất hiện các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Xét nghiệm HBsAg được chỉ định để tầm soát, phát hiện sự hiện diện của virus viêm gan B. Do đó, xét nghiệm này không có giá trị tiên lượng bệnh hay khả năng lây nhiễm [1-4].

Sau 6 tháng nếu kết quả xét nghiệm HBsAg âm tính, điều có có nghĩa là cơ thể đã phục hồi sau giai đoạn nhiễm trùng cấp tính, khi đó người bệnh có nguy cơ thấp tiến triển thành viêm gan B mạn tính. Ngược lại, sau 6 tháng kết quả vẫn dương tính, cùng với một số đánh giá khác, viêm gan có thể tiến triển thành viêm mạn tính và phải có hướng điều trị lâu dài, theo dõi, ngăn ngừa các tổn thương đến gan và biến chứng [1-4].

Anti HBs (HBsAb): Là kháng thể kháng kháng nguyên bề mặt (HBsAg). Xét nghiệm Anti HBs có thể xác định cơ thể đã sản sinh kháng thể bảo vệ, chống lại bệnh viên gan B và xác định hiệu quả của việc tiêm phòng vắc xin viêm gan B. Kết quả xét nghiệm Anti HBs dương tính cho thấy cơ thể đã tạo ra kháng thể tự nhiên hoặc tạo kháng thể sau khi tiêm vắc xin. Nồng độ Anti HBs trong cơ thể có thể giảm dần theo thời gian, xét nghiệm định lượng giúp xác định nồng độ kháng thể trong cơ thể có đủ để bảo vệ cơ thể chống lại sự tấn công của virus viêm gan B không. Dưới đây là ngưỡng nồng độ Anti HBs [1-4]:

  • >10 IU/ml: được coi là có tác dụng bảo vệ [1-4].
  • 0 – 10 IU/ml: Cơ thể không có kháng thể, không có khả năng bảo vệ, cần tiêm phòng vắc xin [1-4].
  • >10 – 100 IU/ml: Cơ thể có nồng độ kháng thể thấp, khuyến cáo tiêm phòng 1 mũi vắc xin nhắc lại [1-4].
  • >100 – 1000 IU/ml: Cơ thể có nồng độ kháng thể cao, có khả năng bảo vệ cơ thể [1-4].

HBcAg (Hepatitis B core antigen) và Anti HBc (Anti HBc IgM, HBc IgG)

HBcAg (Hepatitis B core antigen) là kháng nguyên lõi của viêm gan B xuất hiện trong các tế bào gan bị nhiễm virus, không có trong huyết thanh [1-4].

Anti HBc là kháng thể chống lại lõi virus viêm gan B, xuất hiện trong huyết thanh của cơ thể, minh chứng cho việc có tiếp xúc với virus, bất kể là đã từng nhiễm trong quá khứ hay hiện tại. Anti HBc được hình thành khi cơ thể bị nhiễm virus viêm gan B, không được tạo ra khi tiêm phòng vắc xin. Có hai dạng anti HBc là IgM và IgG [1-4]. Trong đó:

  • Anti HBc IgM là loại kháng thể xuất hiện trong giai đoạn viêm gan B cấp hay khi có đợt bùng phát của viêm gan B mạn [1-4].
  • Anti HBc IgG là loại kháng thể xuất hiện sau 6 tháng sau nhiễm HBV, xét nghiệm dương tính cho biết người bệnh từng nhiễm viêm gan B đã khỏi hoặc đang nhiễm [1-4].

HBeAg, Anti Hbe, HBV DNA và HBcrAg

HBeAg (Hepatitis B envelope Antigen): Là một kháng nguyên ở phần vỏ của virus viêm gan B. Trước đây khi xét nghiệm cho kết quả dương tính thể hiện virus đang hoạt động. Tuy nhiên, hiện kháng nguyên này đột biến nhiều nên dù HBeAg âm tính cũng chưa loại trừ tình trạng hoạt động của virus [1-4].

Anti HBe: Là kháng thể chống lại kháng nguyên HBeAg [1-4].

HBV DNA: Cho biết tải lượng vi rút viêm gan B có trong máu tại thời điểm xét nghiệm. Đây là một trong những căn cứ để quyết định có chỉ định dùng thuốc kháng virus hay không và theo dõi đáp ứng điều trị [1-4].

HBcrAg (Hepatitis B core-related antigen): Là kháng nguyên liên quan đến lõi của virus viêm gan B, phản ánh tới nồng độ HBV DNA huyết thanh và cccDNA trong gan, phản ánh mức độ hoạt động của virus. HBcrAg là một dấu ấn sinh học quan trọng trong chẩn đoán nhiễm virus viêm gan B, cho phép đánh giá nguy cơ tiến triển bệnh thành xơ gan và ung thư gan. Kết quả xét gnhiệm cung cấp thông tin về tải lượng virus viêm gan B không hoạt động, dù ở bất kỳ kiểu gen nào và khả năng tái phát của chúng. Ngay cả khi không phát hiện được HBV DNA hay HBsAg thì HBrcAg vẫn có thể phát hiện được. Xét nghiệm này là căn cứ giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định dừng thuốc kháng virus trên bệnh nhân viêm gan B mạn [6].

Enzyme gan (đánh giá tình trạng tổn thương tế bào gan): ALT, AST

AST (aspartate aminotransferase) và ALT (alanine aminotransferase) là hai enzym (men gan) được tìm thấy trong tế bào gan. Kết quả nồng độ ALT, AST trong máu tăng cao có thể là một dấu hiệu phản ánh đang có tổn thương tế bào gan. Tuy nhiên, hai men gan này cũng có thể tăng trong một số nguyên nhân và bệnh lý khác ngoài gan. Nồng độ AST, ALT có thể thay đổi tùy thuộc vào các giai đoạn khác nhau: mức độ hoạt động của virus và mức độ của tổn thương. Đây là xét nghiệm đơn giản, được thực hiện ở nhiều bệnh viện và phòng khám trên toàn quốc, góp một phần không nhỏ vào việc ra quyết định điều trị và theo dõi đáp ứng điều trị [1,3,4].

Xét nghiệm đánh giá chức năng gan: Bilirubin toàn phần, Albumin, tỷ lệ prothrombin, INR, tiểu cầu

Xét nghiệm chức năng gan được chỉ định khi nghi ngờ bệnh nhân có bệnh lý gan mạn tính, tăng men gan hoặc có những biểu hiện triệu chứng như vàng da, mệt mỏi. Các xét nghiệm sinh hóa, đông máu và công thức máu được thực hiện để đánh giá tổng thể các chức năng của gan, bao gồm: khả năng thải độc, tổng hợp albumin, tạo yếu tố đông máu, chuyển hóa mật,… [3,4]

Bilirubin toàn phần: Đây là giá trị tổng của bilirubin trực tiếp và bilirubin gián tiếp. Mức bilirubin tăng cao có thể do các nguyên nhân ngoài gan, tại gan và tại đường mật sau gan. Trong bệnh cảnh viêm gan virus, tổn thương tế bào gan nặng có thể gây suy giảm chức năng gan, làm giảm khả năng chuyển hóa bilirubin, dẫn đến sự gia tăng bilirubin trực tiếp và gián tiếp, gây nên tăng bilirubin toàn phần [3,4].

Albumin: Là một loại protein trong huyết tương, được tổng hợp chủ yếu từ gan, có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như cân bằng thể dịch,  gắn kết và vận chuyển các vitamin, enzyme, hormone, acid béo,… lưu thông khắp cơ thể. Khi chức năng gan bị suy giảm, kéo theo nồng độ albumin máu giảm, gây ra các triệu chứng rối loạn toàn cơ thể, trong đó hay gặp là triệu chứng phù, tràn dịch màng phổi, màng bụng,… [3,4]

Tỷ lệ Prothrombin (PT) và INR: Là xét nghiệm đánh giá chức năng đông máu của cơ thể. Gan đóng vai trò sản xuất nhiều yếu tố cần thiết cho quá trình đông máu, do đó suy giảm chức năng dẫn đến giảm sản xuất các yếu tố đông máu. Điều này dẫn tới hậu quả thời gian prothrombin kéo dài và sẽ xuất hiện các biểu hiện như dễ bầm tím sau va chạm nhẹ, xuất huyết dưới da tự nhiên…. [3,4]

Các dấu ấn sinh học của ung thư gan: AFP, AFPL3, PIVKA II (DCP)

AFP là chất chỉ điểm được sử dụng trong xét nghiệm tầm soát ung thư gan nguyên phát tại các cơ sở y tế hiện nay. Nồng độ AFP tăng cao, kết hợp với hình ảnh điển hình từ các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính (CT), cộng hưởng từ (MRI) có tiêm thuốc cản quang, giúp chẩn đoán xác định ung thư biểu mô tế bào gan. Tuy nhiên, theo các báo cáo trước đây, có khoảng 40% các bệnh nhân ung thư gan không có mức AFP tăng cao. Ngoài ra, AFP cũng có thể tăng trong các bệnh lý khác như viêm gan mạn tính, xơ gan,… [4]

Việc kết hợp AFP với hai chỉ số khác là AFP-L3 và PIVKA II (DCP) đã chứng minh giúp tăng tỉ lệ chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan, đặc biệt trong những trường hợp ung thư có xâm lấn hoặc di căn mạch máu. Các xét nghiệm này còn có giá trị trong theo dõi đáp ứng điều trị ung thư gan [4].

Đo độ đàn hồi nhu mô gan trên siêu âm: ARFI, Fibroscan, Fibrotest

Trong một vài năm gần đây, đo độ đàn hồi nhu mô gan bằng siêu âm đã trở thành một trong những kỹ thuật tiên tiến được triển khai tại Việt Nam. Phương pháp ngày có ưu điểm là không xâm lấn, tiến hành nhanh và chi phí hợp lý. Phương pháp cho phép đánh giá mức độ xơ hóa của nhu mô gan và tình trạng xơ gan, từ đó giúp bác sĩ lâm sàng trong việc tiên lượng, đưa ra quyết định điều trị và kế hoạch theo dõi cho từng bệnh nhân. Các chỉ số từ các kỹ thuật này giúp chẩn đoán chính xác hơn tình trạng bệnh lý gan mạn tính và đã được đưa vào các hướng dẫn của Bộ Y tế trong quản lý bệnh nhân viêm gan mạn [4].

Kỹ thuật siêu âm đo độ xơ hóa gan ARFI

Kỹ thuật siêu âm đo độ xơ hóa gan ARFI

Các chỉ số đánh giá tình trạng xơ hóa gan (không xâm lấn)

APRI, FIB-4

Trong trường hợp cơ sở y tế không có đủ các trang thiết bị, máy móc hiện đại, các bác sĩ có thể sử dụng một số chỉ số như APRI hay FIB-4 để đánh giá mức độ xơ hóa gan của người bệnh. Các chỉ số này được tính toán dựa trên các thông số cơ bản như tuổi, xét nghiệm men gan (AST), số lượng tiểu cầu. Thông thường, AST trong cơ thể là một loại enzym có nồng độ thấp, nhưng khi gan bị tổn thương, các chỉ số này tăng cao và thường là dấu hiệu của xơ gan. Tiểu cầu là tế bào máu giúp chữa lành vết thương và cầm máu, số lượng tiểu cầu thấp bất thường và thường thấy ở bệnh nhân xơ gan. Ưu điểm của APRI hay FIB-4 là rẻ tiền, dễ áp dụng ở tuyến cơ sở nhưng độ nhạy thấp, phát hiện xơ gan ở giai đoạn muộn [4].

M2BPGi

M2BPGi là một dấu ấn sinh học mới, đã được công nhận để đánh giá mức độ xơ hóa gan, theo dõi đáp ứng điều trị và tiên lượng ung thư gan. Đây là một xét nghiệm máu đơn giản, có khả năng dự đoán chính xác bằng cách đo lường lượng glycans bị biến đổi có liên quan đến xơ gan được tiết ra từ gan. M2PBGi có thể được phát hiện từ sớm khi các tế bào gan có những thay đổi bất thường, đặc biệt ở nhiễm bệnh nhân viêm gan mạn tính. Phương pháp này thích hợp để triển khai rộng rãi trong cộng đồng và hỗ trợ quản lý bệnh nhân viêm gan B mạn tính [5].

Tài liệu tham khảo

1. Quyết định 1869/QĐ-BYT năm 2020 Ban hành Hướng dẫn xét nghiệm vi rút viêm gan B, C

2. Hội Y học TP.Hồ chí Minh. Dấu ấn huyết thanh virus gây viêm gan B

3. Quyết định 320/QĐ-BYT năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành tài liệu “Hướng dẫn quy trình kỹ thuật chuyên ngành Hóa sinh” 

4. Quyết định 3310/QĐ-BYT năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh viêm gan vi rút B

5. Evidence-based clinical practice guidelines for Liver Cirrhosis 2020. J.Gastroenterol. 2021 Jul 7;56(7):593–619. DOI: 10.1007/s00535-021-01788-x