CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN VI RÚT B

Cần lưu ý rằng không phải tất cả các bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B đều cần sử dụng thuốc điều trị. Mục đích của việc sử dụng thuốc bao gồm: Ức chế lâu dài sự sao chép của virus, cải thiện chất lượng sống, ngăn ngừa diễn tiến xơ gan, ung thư gan.

Trong các trường hợp có chỉ định dùng thuốc, bệnh nhân có thể được kê đơn các nhóm thuốc sau: thuốc tương tự nucleosid và interferon.

(1) Nhóm thuốc nucleoside analogues (Nas): là các thuốc kháng virus đường uống, được chỉ định trong các trường hợp bệnh nhân chống chỉ các thuốc nhóm interferon hoặc chức năng gan không còn tốt. Ở một số người có xơ gan tiên triển, điều trị bằng thuốc nhóm này có thể đảo ngược tình trạng suy gan và loại bỏ nhu cầu ghép gan.

Các thuốc được khuyến cáo trong hướng dẫn của Bộ Y tế và các hiệp hội chuyên ngành trên thế giới bao gồm: Tenofovir disoproxil fumarate (TDF), Tenofovir alafenamide (TAF), Entecavir (ETV).

Entecavir và tenofovir là những loại thuốc kháng virus đường uống được sử dụng phổ biến nhất. Những loại thuốc này có hoạt tính mạnh hơn và ít có khả năng đề kháng so với các thuốc tương tự nucleoside đã được sử dụng trước đây (như lamivudin). Do tính đề kháng cao nên Lamivudin ít được sử dụng.

Entecavir là thường được ưu tiên lựa chọn cho những người chưa được điều trị bằng thuốc kháng virus đường uống trước đây. Mặc dù tính kháng với entecavir không phổ biến ở những người chưa bao giờ được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút, nhưng nó có thể xảy ra ở tới 50% số người đã sử dụng lamivudin để điều trị viêm gan B.

Tenofovir là phương pháp điều trị được khuyến nghị cho cả những người đã từng và những người đã từng điều trị hoặc chưa bao giờ được điều trị viêm gan B bằng thuốc kháng vi-rút đường uống. Tenofovir có hiệu quả trong việc ức chế virus viêm gan B ngay cả trong trường hợp đã kháng với các thuốc kháng virus đường uống khác như lamivudin, telbivudin, adefovir hoặc entecavir. Tình trạng kháng tenofovir chưa được báo cáo. Tenofovir có hai dạng: tenofovir disoproxil fumarat (TDF) và tenofovir alafenamid (TAF). TAF được ưu tiên hơn đối với hầu hết các trường hợp. TDF có thể được chỉ định điều trị cho phụ nữ có thai, trẻ ≥ 3 tuổi và đồng nhiễm HBV/HIV.

Các thuốc nhóm này dùng theo đường uống hàng ngày. Hầu hết đều cần điều trị lâu dài để duy trì khả năng kiểm soát virus viêm gan B, trong một số trường hợp có thể phải dùng thuốc cả đời.

(2) Interferon (IFN): Pegylat interferon-alfaL (Peg-IFN-α-2a (người lớn), IFN-α-2b (trẻ em)). Đây là phương pháp điều trị thích hợp cho những người bị nhiễm viêm gan B mạn tính có hoạt động của virus được phát hiện, tình trạng viêm gan đang diễn ra và không bị xơ gan. Thuốc có thể được cân nhắc trên các bệnh nhân trẻ tuổi không mắc bệnh gan tiến triển và không muốn điều trị lâu dài. Thuốc không được chỉ định cho bệnh nhân bị xơ gan, suy gan hoặc những người bị viêm gan tái phát sau ghép gan.

Nhóm thuốc này được sử dụng đường tiêm, hàng tuần, thời gian dùng trong một năm. Tình trạng kháng thuốc với interferon chưa được báo cáo. Nhược điểm của pegylat interferon-alfa là có thể gây ra nhiều tác dụng phụ.

Tài liệu tham khảo: Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh viêm gan vi rút B (ban hành kèm theo quyết định số: 3310/QĐ-BYT ngày 29 tháng 7 năm 2019 của bộ trưởng Bộ Y tế)