ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN (GERD)

Tiếp cận chung trong quản lý bệnh nhân mắc GERD dựa trên tần suất và mức độ các triệu chứng, có hay không có tổn thương tại thực quản, biến chứng và tối ưu hóa các yếu tố nguy cơ của ngươi bệnh. Các phương pháp điều trị chính là các biện pháp không dùng thuốc (thay đổi lối sống, chế độ ăn), điều trị nội khoa bằng thuốc và điều trị ngoại khoa. Nếu thay đổi lối sống và chế độ ăn uống mà các triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày thực quản không được cải thiện, bác sĩ có thể kê một số loại thuốc nhất định để điều trị các triệu chứng này.

Các nhóm thuốc chính được sử dụng trong điều trị GERD là: các antacid, thuốc ức chế bài tiết acid (thuốc ức chế thụ thể H2, thuốc ức chế bơm proton), thuốc bảo vệ tế bào và thuốc hỗ trợ nhu động đường tiêu hóa (prokinetic).

Antacid

Đây là nhóm thuốc thường được sử dụng để làm dịu các triệu chứng ợ nóng, trào ngược mức độ nhẹ. Nhóm thuốc này giúp trung hoà và giảm lượng acid trong dạ dày. Thuốc có tác dụng yếu trong chữa lành các tổn thương viêm tại thực quản nhưng ưu điểm là khởi phát tác dụng sớm trong vòng vài phút sau khi uống. Do thời gian tác dụng ngắn nên thuốc thường phải sử dụng nhiều lần trong ngày.

Các antacid chứa các hợp chất silicat, hydroxit, carbonat của nhôm, magiê, canxi ở dạng đơn độc hoặc kết hợp. Thuốc có thể ở dạng viên nén có thể nhai, hòa tan, dạng chất lỏng hoặc gel. Thời điểm dùng thường là sau các bữa ăn.

Thuốc kháng acid đôi khi gây ra các tác dụng phụ như tiêu chảy và táo bón khi sử dụng thuốc kháng acid quá thường xuyên.

Thuốc ức chế thụ thể H2

Những thuốc ức chế thụ thể H2 bao gồm cimetidin, famotidin,… Thuốc ức chế thụ thể H2 không khởi phát tác dụng sớm như thuốc kháng acid, tuy nhiên, nhóm thuốc này giúp giảm đau lâu hơn, có thể làm giảm sản xuất acid từ dạ dày trong tối đa 12 giờ, giúp chữa lành tổn thương viêm thực quản. Thuốc thường được các bác sĩ kê đơn vào buổi tối trước khi đi ngủ do có tác dụng gỉảm tiết acid sinh lý, giúp bệnh nhân giảm được các cơn trào ngược vào ban đêm.

Thuốc ức chế thụ thể H2 có thể gây ra các tác dụng phụ như: đau đầu, táo bón, bệnh tiêu chảy, buồn nôn, nôn nhưng sử dụng lâu dài có thể làm tăng nhẹ nguy cơ thiếu vitamin B12 và gãy xương.

Thuốc ức chế bơm proton (PPI)

Thuốc ức chế bơm sản xuất acid trong dạ dày, có tác dụng chữa lành viêm thực quản ăn mòn ở nhiều bệnh nhân, ngay cả những người bị tổn thương thực quản nặng. Đây là nhóm thuốc nền tảng trong điều trị GERD.

Thuốc ức chế bơm proton bao gồm lansoprazol (Prevacid) và omeprazol (Prilosec, Zegerid), Esomeprazol (Nexium mups), pantoprazol (Protonix, Pantoloc), rabeprazol (Aciphex, Pariet) và dexlansoprazol (Dexilant). Thuốc thường được kê đơn uống trước ăn 30-60 phút để đạt hiệu quả tốt nhất trừ nhóm dexlansoprazol.

Mặc dù thường được dung nạp tốt, ít tác dụng không mong muốn; tuy nhiên những loại thuốc này có thể gây một số triệu chứng như  tiêu chảy, đau đầu, buồn nôn và thiếu hụt vitamin B12 nếu sử dụng lâu dài. Bởi vậy không nên lạm dụng thuốc này trong điều trị GERD mà cần có ý kiến tư vấn của bác sĩ.

Thuốc bảo vệ tế bào

Thuốc bảo vệ tế bào thường bám vào bề mặt, bảo vệ niêm mạc thực quản khỏi tiếp xúc với dịch dạ dày có tính acid, trung hoà một phần acid và thúc đẩy quá trình chữa lành các tổn thương. Thuốc nhóm này có thời gian tác dụng ngắn và hiệu quả kém hơn so với thuốc PPI.

Thuốc thường được kê đơn để giảm bớt các triệu chứng trào ngược ở những bệnh nhân mức độ nhẹ hoặc vai trò bổ sung trong điều trị GERD kháng trị. Thuốc hay được sử dụng là Sucrafate. Thuốc bảo vệ tế bào có thể gây táo bón nếu dùng với liều cao.

Thuốc hỗ trợ nhu động (Prokinetic)

Thuốc hỗ trợ nhu động prokinetic là nhóm thuốc giúp tăng cường hoạt động co bóp của cơ trơn đường tiêu hóa. Những loại thuốc này thường được sử dụng phối hợp với thuốc ức chế bài tiết acid nhưng phải theo hướng dẫn của bác sĩ do có thể gặp một số tác dụng phụ không mong muốn đặc biệt một số thuốc tác động lên hệ tim mạch.

Bệnh nhân không nên tự ý sử dụng các nhóm thuốc để điều trị GERD mà cần trao đổi với bác sỹ để được tư vấn về lựa chọn nhóm thuốc phù hợp với tình trạng bệnh lý của mình nhằm mang lại hiệu quả điều trị cao và tránh những tác dụng không mong muốn.